Một số học thuyết điều dưỡng
1. Học thuyết Nighting
- Florence Nightingle được xem như mô hình học thuyết và khái niệm điều dưỡng.
- Học thuyết Nightingle:
+ Môi trường như một phương tiện chăm sóc
+ Điều dưỡng cần biết tất cả môi trường ảnh hưởng đến bệnh, tật để tận dụng, môi trường xung quanh để tác động vào việc chăm sóc.
+ Môi trường: Sự thông khí trong lành, ánh sáng, sức nóng, sự sạch sẽ, yên tĩnh, vệ sinh cá nhân để lồng ghép vào điều dưỡng và điều trị.
- Học thuyết này vẫn còn giá trị trong thực hành: đó là kiểm soát NKBV, việc quản lý các nguy cơ dẫn đến nhiễm trùng, vệ sinh và sạch sẽ trong môi trường.
2. Học thuyết Virginia Henderson
- Điều dưỡng là sự hỗ trợ cho người bệnh, người khỏe giúp họ có khả năng phục hồi, giữ gìn sức khỏe, được chết trong êm ả ...
- Mục tiêu của điều dưỡng:
+ Giúp người bệnh đạt được tính độc lập càng sớm càng tốt.
+ Chỉ ra 14 nhu cầu cơ bản của con người trong tất cả các lĩnh vực
1. Hô hấp bình thường. 2. Ăn uống đầy đủ. 3. Chăm sóc bài tiết.
4. Ngủ và nghỉ ngơi. 5. Vận động và tư thế đúng. 6. Mặc quần áo thích hợp
7. Duy trì nhiệt độ cơ thể. 8. Vệ sinh cá nhân. 9. Tránh nguy hiểm, an toàn
10. Được giao tiếp tốt. 11. Tôn trọng tự do tín ngưỡng. 12. Được tự chăm sóc, làm việc. 13. Vui chơi và giải trí. 14. Học tập có kiến thức cần thiết.
3. Học thuyết Orems
- Xác định việc chăm sóc cần nhấn mạnh tới khả năng tự chăm sóc.
- Tự chăm sóc: cần hướng dẫn cách thức tự làm, người bệnh thấy họ còn có ý nghĩa, sức khoẻ nâng cao.
- Mục đích: là giúp người bệnh có năng lực tự chăm sóc.
- Bà đã đưa ra 3 mức độ về chăm sóc.
- Chăm sóc hoàn toàn: không có khả năng tự chăm sóc, và kiểm soát các hoạt động của mình.
- Chăm sóc một phần: Chăm sóc khi người bệnh bị hạn chế về việc tự chăm sóc, cần cung cấp, giúp đỡ việc chăm sóc một phần cho họ.
- Tự chăm sóc: Người bệnh hoàn toàn chăm sóc, điều dưỡng hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh tự làm.
4. Học thuyết Newman.
- Betty Newman: con người là một phức hợp chức năng của các thành phần sinh lý học, xã hội học, phát triển thể chất, tâm thần và tâm linh.
- Môi trường bên trong: những nhân tố ảnh hưởng bên trong con người, được tạo ra là nhờ nỗ lực của người bệnh và nó có thể hình thành theo cơ chế liên tục, không liên tục.
- Môi trường bên trong có sự đe doạ tiềm tàng từ nhân tố stress, cái phá vỡ hệ thống.
- Mô hình của Newman: những nhân tố stress bên trong, và bên ngoài con người.
- Newman cho rằng:
+ Điều dưỡng quan tâm đến toàn bộ cá nhân con người.
+ Mục đích của Điều dưỡng: hỗ trợ cá nhân, gia đình và cộng đồng trong việc đạt và duy trì ở mức cao nhất về sức khoẻ và sự khoẻ mạnh.
- Hoạt động phòng bệnh của Điều dưỡng được chia thành 3 cấp độ:
- Phòng ngừa cấp độ 1:
+ Thực hiện ngay khi phát hiện có vấn đề liên quan đến nguy cơ bệnh, tật can thiệp ngay để không xảy ra.
+ Phòng ngừa cấp 1 tập trung làm mạnh hàng rào bảo vệ.
- Phòng ngừa cấp độ 2:
+ Khi có triệu chứng, dấu hiệu bệnh, có kế hoạch chăm sóc và điều trị sớm, không để bệnh nặng thêm.
+ Phòng ngừa cấp 2 tập trung vào việc thiết lập KHCS, điều trị.
- Phòng ngừa cấp độ 3:
+ Khi bệnh đã rõ ràng, cần tích cực không để bệnh tái phát/không để lại di chứng.
+ Phòng ngừa cấp 3 tập trung ưu tiên vào sự tái thích nghi.
+ Mục đích là làm mạnh sự đề kháng đối với nhân tố stress qua việc giáo dục bản thân người bệnh và hỗ trợ trong việc phòng một sự tái phát của phản ứng stress