Nghiên cứu tình huống mới được du nhập vào Việt Nam, khoảng hơn một chục năm, khoảng những năm 1992-93.
Nghiên cứu tình huống được sinh ra và áp dụng rộng rãi ở Harvard. Nó là phương tiện đột phá khỏi cái hệ thống đọc-nghe-ghi truyền thống của giáo dục kinh viện. Hiển nhiên, tác dụng của nó là trao đổi, phản biện, tích cực tham gia, v.v..
Điều đặc biệt của case study là mỗi người đọc có thể có một mối quan tâm rất khác nhau. Đó là vì, mỗi cá nhân có một cách suy nghĩ, hướng giải quyết, và cách nhìn thế giới khác biệt. Có thể nói hầu như không bao giờ trùng. Trong khi đó, mỗi case lại có rất nhiều thông tin, khi thì chỉ đơn giản là thông số, lúc thì là ý kiến của một người "trong cuộc (case)" ở một nơi khác lại là một đánh giá của một người quan sát.
Sự đa dạng này khiến cho nhiều người đọc sẽ khó lòng tìm kiếm một sự đồng thuận đơn giản và nhanh chóng (trừ khi người ta cố gắng đồng thuận vô điều kiện để kết thúc cho xong). Và đây chính là nguồn gốc của sự thú vị các tình huống mang lại.
Tiếp đến, các case thường có mạch lô-gích và những chi tiết thú vị. Có những case nhắm tới những trường hợp rất nổi tiếng hay được quan tâm rộng rãi toàn cầu. Một khi tình huống nhận được sự quan tâm rộng rãi vào hoặc sau thời điểm sự kiện xảy ra, hiểu biết về tình huống đó được hiểu như là kiến thức của chính chúng ta.
Về cơ bản, các kết cấu hấp dẫn, thương hiệu đáng ngưỡng mộ và tình tiết liên quan nghề nghiệp-nguyện vọng hiểu biết sẽ giúp cho người đọc (và sử dụng) case thấy cuốn hút hơn. Được như thế, người viết case thành công.
Để nghiên cứu tình huống thành công, những người tham gia tình huống thường trước đó đã được trang bị những phương tiện để xử lý các thông tin chứa trong tình huống. Ví dụ, nếu case về đàm phán giá cả, thì điều kiện tiên quyết là qui trình tính toán giá cả sẽ được biết trước. Một số công cụ như phần mềm, số liệu có thể sẽ được cung cấp kế tiếp.
Ngoài ra, những case lớn thường cần tới sự tham gia của nhiều người. Đặc biệt là trường hợp có thương thảo, đàm phán, thì chắc chắn là cần một số người cùng chuẩn bị, hay trình bày. Khi này, người hướng dẫn thường chia nhóm. Các nhóm có thể ngang bằng hay cần có trưởng nhóm, điều phối cho hiệu quả.
Các case study tốt thường có tính gợi mở, và trong đa phần trường hợp, người ta không "đóng" nó lại bằng tốt hay xấu, được hay chưa được, hoặc "kết cục ra sao". Các yêu cầu đối với case study thường không quá khắt khe, nhưng một kỷ luật làm việc tối thiểu luôn cần được duy trì, ví dụ, phân công nhóm, giao đầu việc, và tiêu chuẩn để được xem là hoàn thành công việc...
Qua nhiều quá trình hướng dẫn cho học viên sử dụng case study, có vài điểm rất ý nghĩa.
Thứ nhất , nếu phải thương thảo giữa các nhóm, thì nhóm toàn "sao sáng" thường ít khi là nhóm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thứ hai , có những việc rất dễ dàng đồng thuận ở trạng thái thoải mái thư giãn, thì có thể trở nên rất khó khăn, khi nó trở thành "nhiệm vụ phải đồng thuận."
Thứ ba , sức ép và sự đa dạng ý kiến (bất kể hay hay chưa phải hay, miễn là được lắng nghe một cách cở mở) sẽ tạo ra những phương án và tình huống rất bất ngời.
Thứ tư , hầu hết người Việt Nam không có kỹ thuật sử dụng vũ khí "hài hước" để phá các tảng băng khi làm việc nhóm, hoặc đang đàm phán căng thẳng. (Đàm phán căng thẳng luôn cần khoảng nghỉ để tái tạo sự minh mẫn... Một tiếng cười nhiều khi là quá thừa!)
Thực tế, có rất nhiều thứ chúng ta có thể cảm nhận, nhưng nếu thực hành trên các tình huống, thì những thứ cảm nhận lờ mờ nhất có thể được lôi ra, đặt lên mặt bàn, và chúng ta có dịp nhìn vào trong ruột nó. Khi bạn bắt đầu bằng "Tôi nghĩ..." lập tức tình huống tiếp theo sẽ là "Nghĩ đã phải đủ chưa, tại sao không phải là một vài bằng chứng..." Vậy là quá trình bắt đầu. Thật là thú vị.
Làm việc với case còn có một lợi ích là nhìn rõ hơn ứng dụng của lý thuyết. Lý thuyết để riêng rẽ thường là các bát cơm nguội, nuốt rất khó trôi (trừ những người bẩm sinh đã yêu thích lý thuyết). Nhưng case giúp có thêm thịt cá, và nước mắm. Khi làm việc với nhiều case, thực chất chúng ta nạp vào người một khối lượng thông tin đồ sộ, từ bản thân sự kiện, tới cách thức thao tác nghề nghiệp, hay đo đếm các phản ứng con người... Nguồn duy nhất của kiến thức là kinh nghiệm! Ông Einstein bảo thế. Các bạn thử nghĩ xem, có một lúc nào đó, cảm giác ngờ ngợ bắt chúng ta lục tìm trí nhớ, và nó trở thành trợ thủ đắc lực trong những tình huống tưởng như không có lối thoát. Đâu đó trong bộ não đã ghi nhớ những tín hiệu của các case, mà dường như chúng ta đã quên khuấy.
Thí dụ về 1 bài tập nghiên cứu trường hợp cho tình huống lâm sàng:
" Y sĩ Nam được mời đến thăm bệnh tại nhà cho 1 em bé bị ốm. Khi đến, Nam thấy gia đình đang hoảng hốt xúm đông quanh 1 bé trai chùng trên 1 tuổi trong 1 căn phòng hẹp đóng kín các cửa. Mặt bé đỏ bừng, môi khô rộp và có vẻ rất mệt mỏi. Bé mặc nhiều áo, trên mình đắp 1 chiếc chăn dày. Bà nội của bé mang đến 1 cái chăn nữa và muốn đắp thêm cho bé. Nam gạt cái chăn ra, bảo mọi người đi ra ngoài và cặp nhiệt độ cho cậu bé. Bé sốt gần 40 độ. Nam cởi bớt quần áo cho bé, bảo người mẹ trẻ cho cháu bú. Bà nội nói nhỏ: không được cho bú" và người mẹ có vẻ lưỡng lự. nam bảo mang đến 1 chậu nước lạnh và 1 cái khăn để chườm cho bé. Bà già kêu to phản đối. Nam quát: làm theo y lệnh của tôi". Người mẹ vội vàng nhét vú vào miệng đứa trẻ và người chồng đưa cho Nam cái khăn ướt. Nam bắt đầu chườm cho em bé. Đứa bé bú mẹ háo hức, trong khi bà già lẩm bẩm rằng trẻ ốm phải kiêng nước, kiêng bú, và rằng bà đã chăm nom cho hàng chục con cháu, chẳng bao giờ bà cho phép làm như thế này. Nam phớt lờ như không nghe thất và tự tay cho đứa trẻ uông 1/4 viên paracetamol 500mg rồi bắt đầu hỏi bệnh và khám bệnh cẩn thận cho đứa trẻ. Sau 1 thời gian anh đo nhiệt độ lại và báo cho cả nhà rằng nhiệt độ của bé đã hạ xuống 37.5 độ. Anh chào hỏi mọi người hẹn sẽ đến khám lại vào hôm sau rồi ra về."
CÂU HỎI:
1. Tình huống ở đây là gì? (bệnh nhi, những người khác, hoàn cảnh)
2. Y sĩ Nam đã làm điều gì tốt và chưa tốt ( về chuyên môn và thái độ ứng xử)
3. Nên làm thế nào cho tốt hơn?